Nhà tài trợ

1
1
3
Brot

Hoạt động

Giải quyết mâu thuẫn đất đai giữa lâm trường và người dân địa phương

  • (ĐCSVN) - Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị định số 200/2004/NĐ-CP của Chính phủ về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển nông, lâm trường quốc doanh, thực trạng sử dụng đất và tài nguyên rừng của các lâm trường quốc doanh vẫn còn nhiều hạn chế, trong đó tình trạng mâu thuẫn đất đai giữa lâm trường và người dân địa phương còn phổ biến, nhiều nơi diễn ra gay gắt.

    Đây là nội dung được phản ánh tại Hội thảo “Mâu thuẫn đất đai giữa công ty lâm nghiệp và người dân địa phương: Thực trạng và giải pháp” do Tổ chức Forest Trends phối hợp với Viện Tư vấn Phát triển (CODE) tổ chức sáng ngày 27/3, tại Hà Nội.
    Hội thảo “Mâu thuẫn đất đai giữa công ty lâm nghiệp và
    người dân địa phương: Thực trạng và giải pháp”. (Ảnh: TH)

    Theo báo cáo tại Hội thảo, về thực trạng mâu thuẫn đất đai giữa công ty lâm nghiệp và người dân địa phương do 2 tổ chức trên thực hiện tại 4 địa bàn: Hữu Lũng (Lạng Sơn), Quảng Ninh (Quảng Bình), Đắk Lắk, Lâm Đồng, hiện có nhiều ý kiến cho rằng con số 76.000 ha của năm 2011 là tổng diện tích đất lâm nghiệp của lâm trường nằm trong diện tranh chấp, lấn chiếm theo như thống kê chính thức của cơ quan quản lý Nhà nước là nhỏ hơn rất nhiều so với thực tế và chỉ là tảng băng chìm của tình trạng mâu thuẫn đất lâm nghiệp tại Việt Nam hiện nay. Con số này chưa phản ánh được tính phức tạp về nguyên nhân mâu thuẫn, tác động của mâu thuẫn và các cơ chế giải quyết tranh chấp hiện nay đang được áp dụng tại địa phương.

    Báo cáo cũng đã phân tích ba nguyên nhân chính dẫn đến mâu thuẫn đất đai giữa lâm trường và người dân. Trước hết, đó là người dân thiếu đất canh tác nhằm bảo đảm sinh kế. Theo thống kê của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong giai đoạn 2009-2011 có trên 347.000 hộ thiếu đất với chiều hướng ngày càng gia tăng. Thiếu đất cũng chính là nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo cao tại các địa bàn nơi nghiên cứu này được thực hiện.

    Thứ hai là do bất bình đẳng trong việc sử dụng đất, các lâm trường đang sử dụng nhiều đất một số nơi hiệu quả thấp trong khi dân lại thiếu đất sản xuất. Tại một số địa phương chính quyền cắt đất từ các lâm trường và đem giao cho các công ty tư nhân để phát triển cây công nghiệp thay vì chia đất cho dân nhằm thoát nghèo. Sự bất bình đẳng còn thể hiện khi lâm trường trao hợp đồng khoán và bảo vệ rừng cho người ngòai cộng đồng mà không trao cho người dân địa phương, điều này làm mất cơ hội về thu nhập và việc làm cho những hộ dân nghèo.

    Nguyên nhân cuối cùng là do việc phát triển mạnh mẽ mạng lưới thị trường nông sản hàng hóa ở vùng núi trong thời gian gần đây tạo điều kiện cho việc nâng cao thu nhập cho nhiều người. Tiếp cận và kiểm sóat đất đai trở thành cơ hội nâng cao thu nhập cho những người nắm giữ quyền này. Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt về đất lâm nghiệp tại một số địa phương.

    Tại nhiều địa phương, hiện nay cơ chế giải quyết mâu thuẫn đất đai giữa lâm trường và người dân thường bế tắc. Nguyên nhân chủ yếu là thiếu cơ sở pháp lý như chưa có sự phân định ranh giới đất đai rõ ràng trên thực địa, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chồng chéo, và thiếu nguồn lực cần thiết nhằm giải quyết tranh chấp. Các cơ chế hiện hành vẫn chưa giải quyết tận gốc các nguyên nhân dẫn đến tranh chấp.

    Báo cáo cũng nêu rõ, tuy không phản ánh được hết thực trạng và tính phức tạp về mâu thuẫn đất đai giữa lâm trường và người dân trong cả nước, nhưng những số liệu và phân tích trong báo cáo này được dựa trên nghiên cứu thực địa sẽ cung cấp các bằng chứng cụ thể về nguyên nhân và tác động về môi trường, xã hội và kinh tế của các mâu thuẫn. Bên cạnh đó, kết quả của nghiên cứu thực địa này cũng góp phần trả lời câu hỏi tại sao các mâu thuẫn vẫn tồn tại dai dẳng cho đến nay tại nhiều địa phương.

    Tại Hội thảo, trên cơ sở phân tích thực trạng và các khó khăn vướng mắc trong cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai, các đại biểu đã đưa ra kiến nghị: Cần thực hiện tổng điều tra đánh giá, rà soát tình trạng thiếu đất sản xuất của các hộ dân, đánh giá nhu cầu đất canh tác tối thiểu của các hộ; đánh giá rà soát tình trạng thiếu đất sản xuất của các hộ dân, đánh giá nhu cầu đất canh tác tối thiểu của các hộ; tạo quỹ đất dự phòng cần thiết cho cộng đồng trên cơ sở lợi ích là cốt lõi nhưng quan trọng là cơ chế... Bên cạnh đó, các thông tin có liên quan đến sự thay đổi sử dụng tài nguyên đất và tài nguyên rừng cần phải được công khai, minh bạch đặc biệt đối với người dân. Mặt khác, mở rộng công tác truyền thông cũng đóng vai trò quan trọng nhằm chuyển tải các thông tin kịp thời liên quan đến mâu thuẫn đất đai, từ đó góp phần giải quyết tranh chấp.../.

    Theo ĐCSVN

Bài viết khác